Trịnh Cung nói về...“Cuối Cùng Cho Một Tình Yêu”
LTS: Bài phỏng vấn dưới đây do Mimi Thủy Tiên thực hiện tại Việt Nam,
trong dịp nghỉ thường niên trong tháng 2, 2005 vừa qua, với họa sĩ
Trịnh Cung, một trong những người bạn thân, cùng thời với nhạc sĩ Trịnh
Công Sơn. Bài thơ “Cuối cùng cho một tình yêu” đã hôn phối với nhạc
Trịnh thế nào, mặc dù đã nhiều lần hoạ sĩ Trịnh Cung đã nói, đã kể, tuy
nhiên, nhân dịp giỗ lần thứ 4 của TCS, một lần nữa, Trịnh Cung dành cho
VW một lần kể, với một cảm xúc mới và những chi tiết mới mà ký ức của
ông có thể cho phép nghĩ lại, nhớ về người bạn tài hoa một thời, đã để
lại một dấu ấn không phai mờ trong hàng triệu triệu trái tim người Việt
trong lẫn ngoài nước.
Việt Weekly: Họa sĩ Trịnh Cung cho biết về bài thơ Cuối cùng cho một tình yêu đã được nhạc sĩ Trịnh Công Sơn phổ nhạc.
Trịnh
Cung: Về hai bài thơ của tôi đã được Trịnh Công Sơn phổ nhạc. Trước hết
tôi nói về bài Cuối cùng cho một tình yêu. Từ năm bài thơ đã được phổ
nhạc cho đến nay, chỉ thiếu 3 năm là được nửa thế kỷ. Năm 1958, tôi
viết bài thơ Cuối cùng cho một tình yêu, và cũng ngay năm đó, Trịnh
Công Sơn phổ nhạc. Cho đến nay, nó đã sống gần nửa thế kỷ. Câu chuyện
về bài thơ này cũng đã có một số người hỏi tôi về nguồn gốc tại sao nó
ra đời, câu chuyện tình trong đó nói về ai. Riêng ca sĩ Khánh Ly trong
một lần nói chuyện với hãng băng đĩa Asia có kể về câu chuyện tình này.
Khánh Ly kể rằng là trong một đêm thức dậy, tôi đốt tập thơ tôi, tôi
khóc hu hu. Lúc đó Trịnh Công Sơn thường từ B’lao về ở với tôi trong
một căn phòng rất nhỏ, chỉ vừa cho 3 người ngủ trên 1 chiếc chiếu.
Trịnh Công Sơn nghe tôi khóc mới bật dậy, thấy tôi đốt tập thơ mới chụp
lại và giữ được 1 bài thơ, đó là bài Cuối cùng cho một tình yêu, Trịnh
Công Sơn đã phổ nhạc bài thơ đó. Ðó là câu chuyện mà Khánh Ly đã kể. Có
lẽ Khánh Ly đã nghe Trịnh Công Sơn kể và sau đó do thời gian thế nào,
đã có một câu chuyện hấp dẫn về bài thơ này. Nhưng đây là những tháng
ngày, cũng gần như là cuối đời của tôi, tôi rất cám ơn Khánh Ly đã kể
câu chuyện ấy với quí vị, nhưng hôm nay tôi muốn nói thật về bài thơ
này.
Sự việc tôi đốt tập thơ là có thật bởi vì đó là một thái độ
mà tôi cần có để tôi tập trung cho hội họa, tôi không muốn dịnh líu đến
thơ ca vì tôi có một quan niệm là làm cái gì làm cho tới nơi, hai ba
thứ nó lôi thôi lắm, cho nên tôi quyết định hủy bỏ làm thơ để tập trung
cho hội họa. Nói về vấn đề bài thơ do Trịnh Công Sơn phổ nhạc. Năm tôi
đốt thơ là năm 1963, nhưng Trịnh Công Sơn đã phổ nhạc bài thơ này vào
năm 1958, không có nghĩa như câu chuyện Khánh Ly đã kể. Bài thơ này tôi
làm khi tôi ra Huế, “học trò trong Quảng ra thi, thấy cô gái Huế chân
đi không đành”. Tất cả hình ảnh của cô gái Huế thời đó vẫn còn cực kỳ
thơ mộng và không thay đổi được. Vào thời đó, những nữ sinh trường Ðồng
Khánh, tầm tan trường, họ như là những cánh bướm trắng bay trong những
công viên ở trước bờ sông Hương và tôi lạc lõng giữa những đàn bướm ấy.
Lẽ dĩ nhiên là không bao giờ tiếp cận được họ đâu vì họ có một cung
cách rất Huế, rất thiêng, rất kín đáo và mình chỉ có biết đi theo, nhìn
ngắm họ rồi mơ mộng về họ và bài thơ này tôi viết về họ. Hình ảnh một
cô gái Huế chung chung thôi và tôi hư cấu thành một chuyện tình. Tôi
ngông cuồng để cho thấy rằng mình không phải là “học trò trong Quảng ra
thi” mà mình cũng là một cái gì, cũng có thể từ khước họ, cho oai. Một
lối hờn dỗi của một người không chạm được đến tình yêu, nên bày ra cái
trò là… Ừ thôi em về, cứ về đi, tại vì có được đâu mà bảo ở lại, cho
nên thôi để cho oai hơn là cứ… Ừ thôi em về. Nhưng em về rồi, thì sao?
Em về rồi thì… bàn tay đói… Em ra khỏi tay rồi, em đâu có trong vòng
tay, mà em đâu có bao giờ trong vòng tay tôi đâu… thành ra hai vòng tay
tôi, hai bàn tay tôi luôn luôn đói, đói khát vì một hình ảnh và tôi cứ
mãi đi theo những cuộc tan trường vào những buổi chiều, buổi trưa như
vậy, nên… chân phải mỏi thôi.
Nhưng Có anh bạn làm thơ ở Sàigòn lại có
một suy nghĩ khác về “hai bàn chân mỏi” rất là vui, chưa bao giờ có một
hình ảnh sex đến như vậy. Tại sao lại có hai bàn chân mỏi, chỉ có yêu
quá đáng mới mỏi thôi! Nhưng thật ra vào thời của chúng tôi, vào thập
niên 50-60, tình yêu rất là thánh thiện, toàn là mơ mộng, toàn là tưởng
tượng, không dám chạm đến bàn tay của người con gái mình yêu thích thì
làm gì có chuyện sex với xiếc. Thế thì câu chuyện của bài thơ đó là bài
thơ hoàn toàn hư cấu nhưng dựa trên cung cách của những cô gái Huế thời
đó. Lẽ dĩ nhiên nó thuộc về những cô gái đẹp của thời đó, cũng là
chuyện bình thường thôi. Cái gì mà con người ta dâng hiến thì thường
dâng hiến cho những gì tốt nhất, đẹp nhất. Lẽ dĩ nhiên là đẹp nhất đối
với mình. Ở đây không có nghĩa là những cô gái xấu kia không đẹp, tại
vì là chưa chắc tôi đã nhìn ra những cái đẹp của họ, họ có thể đẹp dưới
cái nhìn của những người đàn ông khác. Thành ra, nếu có phạm vào điều
gì cũng cho tôi xin lỗi. Dẫu sao những cô gái đó ngày nay đã thành bà,
bà nội, bà ngoại rồi, phải không? Cho tôi gởi lời thăm hỏi những cô gái
Huế, vẫn đẹp trong lòng tôi cho đến ngày hôm nay.
VW: Vậy chỉ có một phần câu chuyện của Khánh Ly kể là đúng thôi, còn 9 phần còn lại là sai hết?
TC:
Những phần khác có lẽ do câu chuyện Khánh Ly thương tôi muốn cho câu
chuyện nó hấp dẫn hơn hoặc là do anh bạn tôi Trịnh Công Sơn kể lại một
cách biến tấu. Nhưng mà chuyện có thật là tôi có đốt tập thơ. Bìa tôi
định in cho tập thơ của tôi, sau đó trở thành bìa của tập thơ rất hay
của nhà thơ Hoàng Trúc Ly “Trong cơn yêu dấu”. Ðó là bìa tôi vẽ cho tập
thơ của tôi và sau đó tôi tặng lại cho nhà thơ Hoàng Trúc Ly để làm bìa.
VW: Còn về bài Thiên sứ bâng khuâng.
TC:
Bài Thiên sứ bâng khuâng tôi mới làm vào năm tôi sang Mỹ lần thứ 2. Tôi
gặp lại một người yêu cũ của Trịnh Công Sơn. Hôm ấy, cô ấy mời tôi đi
ăn ở South Coast Plaza, ở Macy, ở đó có một cửa hàng open air, ăn ở
ngoài trời, dưới những cây dù. Lần đầu tiên tôi thấy chim bay, những
con chim sẻ đậu quanh cô ấy, và cô ấy thả cho nó những ruột bánh mì và
từng con một nhảy gắp những mẩu bánh mì… Tôi thấy thú vị quá! Bởi vì
thời đó chúng tôi ở thành phố Sàigòn không còn chim, người ta bắn chim.
Cho nên, sang Mỹ tôi thấy chim ở khắp mọi nơi, con người ở đâu, chim ở
đó. Tôi đã xúc cảm và viết bài Thiên sứ bâng khuâng… có câu là
Con chim
về đậu bên người,
là thiên sứ đó là tôi cũng chừng,
vô tình em thả bâng
khuâng,
tôi làm chim nhặt để phần mai sau.
Tôi đã làm bài thơ ấy, với
một ngẫu hứng như vậy, tôi trở về Sàigòn lại. Năm sau tôi lại sang Mỹ,
tôi có thân với một ca sĩ ở Orange County, cô ấy với tôi có một thời
gian là bạn. Chúng tôi chia sẻ với nhau về văn nghệ và về đời sống bên
ngoài. Cô ấy là một niềm an ủi của tôi trong thời gian tôi ở Mỹ, tôi
lại viết thêm 2 câu thơ nữa để tặng cho cô ấy. Có nghĩa là bài thơ này
làm nhân một bữa ăn với một người bạn cũ, người yêu cũ của Trịnh Công
Sơn, nhưng sau đó nó lại kết vào một người tôi mới kết bạn. Tôi thêm 2
câu sau là
Mai sau thiên sứ về trời,
còn tôi ở lại bên người tôi yêu.
Nhưng mà số phận của bài thơ này không dừng ở đó, khi tôi về Việt Nam ở
luôn sau cơn bạo bệnh, để mà chết, tôi gặp một người con gái khác.
Trịnh Công Sơn đã viết một bài về vấn đề và số phận của bài thơ này
đăng trên tờ tạp chí Heritage của hãng Hàng không Việt Nam, có tựa là
Số phận của một bài thơ. Mỗi tác phẩm có một số phận riêng, nó làm cho
người này, nhưng nó lại kết vào người khác. Và đây là bài thơ mà Trịnh
Công Sơn phổ trước khi anh qua đời vào năm 2000, năm anh đón nhận thiên
niên kỷ mới. Tôi phá vỡ thông lệ, định chỉ để một bài Cuối cùng cho một
tình yêu được phổ nhạc. Nhưng khi Sơn đọc bài thơ này, Sơn rất là thú
vị, anh coi như là một kỷ niệm để chia tay với thế kỷ cũ và anh đã phổ
nhạc. Bài này rất ít phổ biến, chỉ có Trần Thu Hà hát ở Sàigòn, Tuấn
Ngọc hát ở Mỹ, chưa có thâu băng đĩa. Tôi cũng muốn coi đó như một kỷ
niệm của đời tôi với một người bạn thân đã qua đời và nếu nó còn ở lại
với mọi người thì cũng như tôi vừa mới trình bày, mỗi bài đều có số
phận riêng, nó hoàn toàn phụ thuộc vào định mệnh của nó.
VW: Như vậy bài Thiên sứ bâng khuâng có 3 đoạn, thuộc về 3 giai nhân?
TC:
Có thể nói là như vậy. Bài Thiên sứ bâng khuâng bắt đầu là một cảm hứng
vào năm 1998 chỉ có 4 câu. Sau đó nó trở thành một bài lục bát 6 câu,
để nói về ước mơ của tôi, muốn phá bỏ cái hạn kéo dài đời tôi là Cuối
cùng cho một tình yêu, tôi lỡ phát ngôn là “Ừ thôi em về”. Tôi dại dột
đã nói với người đẹp là “Ừ thôi em về”. Cho nên từ đó tôi rất là cô
đơn, bây giờ tôi không muốn còn sự cô đơn nữa, tôi mới nói “Mai sau
thiên sứ về trời, còn tôi ở lại bên người tôi yêu”, đó là vào năm 1999.
Ðoạn cuối làm vào năm 2000. Nhưng cuối cùng, họ cũng bỏ tôi đi, cái hạn
vẫn còn ở lại với tôi.
VW: Cuộc sống tình yêu hiện tại của họa sĩ Trịnh Cung như thế nào?
TC:
Cũng chưa biết nó sẽ như thế nào. Nhưng tôi đón nhận nó như một ân huệ
để bù lại những năm cô đơn của tôi. Ðây là một cái duyên lạ, không chờ
đợi, tôi không hề biết trước và tự họ bay đến. Tôi không có cách nào
khác là đón nhận. Tôi không thể từ khước được vì nó cho tôi rất nhiều
sức sống. Nó là nguồn sống, nguồn sáng tác của tôi bây giờ. Còn chuyện
ngày mai, tôi không thể biết được chuyện gì sẽ xảy ra. Tôi không quan
tâm tới ngày mai vì đối với tôi còn được sống như thế này là đã có quá
nhiều ân huệ rồi. Tôi không dám mơ tưởng ngày mai nó sẽ như thế nào.
Thủy Tiên ghi,
Việt Weekly, Vol. 3-14.
Các thao tác trên Tài liệu