Bạn đang ở: Trang chủ / Góc bạn bè / Bài viết / Em còn nhớ hay em đã quên

Em còn nhớ hay em đã quên

- Webmaster cập nhật lần cuối 11/08/2008 19:26
Thái Bá Vân, T.P. Hồ Chí Minh – Hà Nội, tháng 6 – 1991


Một buổi sáng Hà Nội rất sớm, đầu tháng trước, trên giường bệnh, Văn Cao vui vẻ trao cho tôi tập tình khúc Trịnh Công Sơn Em còn nhớ hay em đã quên vừa in ở Nhà xuất bản Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh tháng 4-1991, mà anh viết một lời bạt (lời thứ hai là của nhà văn Sơn Nam).

Lời bạt của Văn Cao tôi đã được đọc từ năm ngoái, khi còn là bản thảo. Còn bài hát Em còn nhớ hay em đã quên của Trịnh Công Sơn thì tôi còn giữ một kỷ niệm, đã mười năm.

Có lẽ đó là mùa hè 1982. Tôi được nghe chính Trịnh Công Sơn hát tại một gia đình Sài Gòn, quanh nhiều khuôn mặt một thời tăm tiếng. Ví dụ đó là bà thi nhân Mộng Tuyết, vợ cố thi sĩ Đông Hồ, là nhà thơ đã già Bàng Bá Lân... và bữa cơm là do đôi tay văn hiến Hà Nội của bà Vũ Hoàng Chương điều khiển. Hôm ấy có một người phản ứng bài hát của Sơn khá mạnh (người ấy trước kia chuyên ngâm thơ trên đài Sài Gòn cũ), nói sỗ sàng : "Sài Gòn đã sa sút, không còn gì như xưa nữa, đừng nói dối những người di tản !".

Trịnh Công Sơn vẫn hiền hậu mỉm cười, không đáp, và bấm đàn tiếp : "... Em ra đi nơi này vẫn thế, vẫn có Em trong tim của Mẹ. Thành phố vẫn có những giấc mơ, vẫn sống thiết tha, vẫn lấp lánh hoa trên đường đi... Em còn nhớ hay em đã quên..."

Một lần nữa tôi thấy ngọn nến lung linh, xanh ngát trong mọi ca khúc của anh dịu dàng hắt lên khuôn mặt quê hương thứ ánh sáng ám ảnh, huyền thoại, như trên hội hoạ của một Giooc-dơ đờ la Tua (1593 – 1652) mà mãi đầu thế kỷ XX người ta mới nhận ra.


***

Tập Em còn nhớ hay em đã quên của Trịnh Công Sơn gồm 50 tình khúc (trong số 500) anh viết từ 1958 đến nay. Tôi có nhận xét rằng hơi nhạc có ma lực xa xăm, sâu kín của anh trước, sau là một. Chưa bao giờ nó hạn hẹp, chia lìa. Một hơi nhạc đằm thắm và siêu hình, như phấp phỏng hoang vắng về những nỗi đau con người trước ý nghĩa của cuộc đời và hy vọng. Nhưng tài năng của anh lại làm ta an tâm, rằng cái thế giới bàng hoàng thao thức kia không có cách nào khác để bày tỏ, ngoài cách của nghệ thuật. Bởi thế, mà cả nghệ thuật lẫn chúng ta đều có thể biết ơn anh.

Trinh Công Sơn tự coi mình "chỉ là tên hát rong đi qua miền đất này để hát lên những linh cảm của mình về những giấc mơ đời hư ảo". Nhưng, chỗ lớn lao và bất dịch của "tên hát rong" đó là bao giờ hắn cũng ý thức được sự có mặt của tâm thức mình, và, trước những giấc mơ đời hư ảo hắn đã mềm mại nắm chắc sự sinh khởi hay hủy diệt của tấm lòng. Như một người tu Thiền đạt đạo.

Trong bộ Bách khoa Le Million, viết về tất cả mọi đất nước trên trái đất này, người ta viết về Trịnh Công Sơn (tập VIII, trang 122, Genève, 1973) như sau : "... Nhiều thi nhân miền Nam Việt Nam ngày nay đã tìm hơi thở hùng ca của tổ tiên ngày trước để hát nỗi đau của mình. Trịnh Công Sơn nổi bật giữa những tài năng trẻ đó. Bài hát của anh tràn ngập thành phố và thôn quê. Trịnh Công Sơn cất cao tiếng hát thi nhân, mà đạn bom không bao giờ dập tắt được...". Có lẽ người viết đã nghĩ đến những bài ca phản chiến của anh ngày đó : Ngày dài trên quê hương, Đại bác ru đêm, Hãy nói giùm tôi, Đi tìm quê hương, Nối vòng tay lớn...

Quê hương với những chữ Mẹ, chữ Em, chữ Bạn bè viết hoa là cái nền màu mỡ, bao la mà trên đó ươm nở những giai điệu nồng nàn, những lời ca bất ngờ, thơm thảo của Trịnh Công Sơn. Anh nhìn quê hương với đôi mắt nợ nần, và nghe quê hương trong từng tiếng tri âm. Cái mà ngày nào anh gọi tên là Chiếc lá thu phai, là Cát bụi, là Nắng thủy tinh, là Biển nhớ... và bây giờ anh gọi nó là Vẫn có em bên đời, là Huyền thoại mẹ, là Bốn mùa thay lá, là Tình khúc Ơ bai..., thảy là những vết sẹo âu yếm, giông bão trong lòng Việt Nam. Mỗi cử chỉ âm nhạc của Trịnh Công Sơn là một lễ nghi.


***

Rồi con cháu chúng ta sẽ không thể hiểu được có một phần tư thế kỷ XX đất nước mình chia cắt làm đôi. Không một ai bên này được biết một cái gì bên kia giới tuyến. Bấy giờ, ở các thư viện Hà Nội hình như mãi sau Tết Mậu Thân 1968 mới lác đác một vài sách báo miền Nam, và muốn đọc nó phải là hạng cán bộ nào, cùng với giấy giới thiệu đặc biệt nào mới được.

Bởi vậy, Hà Nội biết Trịnh Công Sơn có muộn.

Riêng tôi mãi sau khi miền Nam giải phóng, nhờ những chuyến đi dạy học ở Huế, tôi mới được gần Trịnh Công Sơn trên căn gác nhỏ đường Nguyễn Trường Tộ đầy kỷ niệm với bạn bè trong đó.

Niềm vui ấy là của hàng triệu người đã khuất dành cho chúng tôi, mà mỗi lần nhớ lại chúng tôi đều thầm rơi nước mắt.

Thái Bá Vân
T.P. Hồ Chí Minh – Hà Nội, tháng 6 – 1991

Các thao tác trên Tài liệu