Rose était la pluie
 Trời ươm nắng cho mây hồng
 Mây qua mau em nghiêng sầu
 Còn mưa xuống như hôm nào
 Em đến thăm mây âm thầm mang gió lên
 
 Người ngồi đó trông mưa nguồn
 Ôi yêu thương nghe đã buồn
 Ngoài kia lá như vẫn xanh
 Ngoài sông vắng nước dâng lên hồn muôn trùng
 
 Này em đã khóc chiều mưa đỉnh cao
 Còn gì nữa đâu sương mù đã lâu
 Em đi về cầu mưa ướt áo
 Đường phượng bay mù không lối vào
 Hàng cây lá xanh gần với nhau
 
 Người ngồi xuống mây ngang đầu
 Mong em qua bao nhiêu chiều
 Vòng tay đã xanh xao nhiều
 Ôi tháng năm, gót chân mòn trên phiếm du
 
 Người ngồi xuống xin mưa đầy
 Trên hai tay cơn đau dài
 Người nằm xuống nghe tiếng ru
 Cuộc đời đó có bao lâu mà hững hờ.
 
 Le ciel de soleil imprégné, a rosi les nuages 
 Qui t’inclinaient au chagrin, en s’effaçant trop vite,
 Ne restait que l’averse, comme naguère, quand tu me rendais visite, 
 Lorsque des nues silencieuses, étaient montés les vents en orage.
 
 Je restais là, assis, guettant la pluie de la haute région. 
 Hélas, ma tendresse résonnait déjà en tristesse. 
 Tandis qu’au loin, les feuillages mimaient encore leur jeunesse,
 De la rivière déserte, enflaient en mon âme, les flots en légions.
 
 Maintenant que tu as pleuré cet après-midi où il pleuvait sur les cimes, 
 Qu’en est-il resté désormais, après que le brouillard a perduré?
 Tu étais rentrée en priant que, de pluie, ta robe fût mouillée. 
 Le chemin obscurci de flamboyants envolés, avait celé son entrée. 
 Les arbres en rangée, par leur verte frondaison, s’étaient enlacés.
 
 Je m’étais assis, avec les nuages, par-dessus le front.
 Mes bras, pour t’enserrer, en languissant de te revoir, 
 Sont devenus frêles et pâles, soir après soir.
 Les années d’errance aussi, ont de mes talons, fini d’user le fond. 
 
 Je m’étais accroupi, pour quémander la pluie pleine,
 En mes deux mains, de douleur et de peine, 
 Et m’étais allongé, pour écouter la voix berceuse
 De cette vie éphémère, sans raison, si boudeuse.
 
 Trịnh Công Sơn
 Traduction de Thanh Bạch
 11/05/2006 
 
Cette traduction a été faite en mémoire de Nguyễn Ngọc Nhựt (1918 – 1952), patriote et résistant, fait prisonnier le 2/6/1949 à Cái Bèo (de la province de Sa Đéc), soumis aux mauvais traitements, torturé et mort le 16/5/1952 à l’asile de Biên Hòa. 
 
Các thao tác trên Tài liệu


 
            



